Cây mai vàng được trồng ta nước ta từ năm nào, thuộc thế kỷ nào?
Chúng tôi rất tiếc là không có trong tay tài liệu đáng tin cậy nào để giải đáp thỏa đáng được câu hỏi này. Chỉ biết một điều là cây mai vàng được trồng tại nước ta lâu đời rồi, và hàng ngàn đời nay tổ tiên ta đã xem màu vàng tươi tắn của hoa mai tượng trưng cho sự thịnh vượng, hạnh phúc và may mắn nên mới dùng hoa mai vào việc chưng cúng trên bàn thờ tổ tiên trong dịp tết Nguyên đán, trùng hợp với màu hoa mai nở.
Cái tục lệ này vẫn còn truyền lại cho đến tận ngày nay.
Chỉ những chi tiết đó thôi cũng đủ cho ta thấy cây mai vàng được ông bà ta trồng từ lâu đời.
Do mai vàng là loài hoa quí, không những quí bởi sắc vàng của hoa rực rỡ, tươi tắn, mà trong Kinh Thi, bộ sách quí của Trung Hoa do đức Khổng Tử san định cũng khen là giống cây có tiết tháo trong sạch, hiên ngang tắm gió gội sương giữa trời băng giá, sánh ngang với tùng, bách. Triết lý của đạo Nho xem mai mang khí phách bất khuất của người anh hùng. Còn trong Lão giáo thì tôn mai lên hàng vũ trụ luận, cho là do khí âm dương phối hợp mà thành…
Cũng như chúng ta ngày nay, người xưa cũng rất say mê trồng mai. Nhưng có nhiều người muốn biết kỹ thuật trồng mai của người xưa có khác xa với cách trồng của người thời nay không? Đó là thắc mắc lý thú, chúng ta cùng tìm hiểu xem sao…
Kỹ thuật trồng mai của người xưa
Ngày xưa nước ta chuyên về nông nghiệp; tuy đất rộng người thưa, và tuy cây mai được xem là loài cây quí (hoa dùng vào việc thờ cúng) nhưng thực tế nó không phải là giống cây lương thực như lúa, bắp, khoai, đậu nên ông bà chỉ dùng những khoảnh đất đầu thừa cuối thẹo trong vườn để trồng vào đó một số gốc mai vàng để đến tết có hoa chưng cúng khỏi phải đi xin ai. Còn những thửa đất màu mỡ thì họ dùng vào việc trồng lúa, bắp, khoai, đậu để có lương thực mà ăn.
Đó là quan niệm đơn giản nhưng mang tính thực tế, thực dụng của đại đa số người xưa. Họ là những người nghèo, quanh năm đầu tắt mặt tối chân lấm tay bùn làm việc quần quật ở ngoài đồng để kiếm cái ăn. Năm nào thời tiết thuận lợi được mùa thì nhà nhà no ấm. Ngược lại những năm bị mất mùa thì nhà nhà đói kém, tới bữa củ khoai cũng không có… cầm hơi. Vì vậy, lúc nào người ta cũng ưu tiên lo đến cái ăn, cái mặc, hiếm có ai dám tơ tưởng đến thú ăn chơi.
Cây mai vàng được trồng với cách đó thì sự chết sống ra sao đều phó mặc cho trời, ít ai chịu bỏ công sức ra chăm sóc, tưới bón. Chỉ đến ngày rằm tháng Chạp – còn nửa tháng nửa đến tết, người ta mới vội vã ra chỗ trồng mai để làm việc trẩy lá cho cây mai trổ hoa đúng vào dịp tết.
Đến ngày cận tết, người ta lại ra vườn chọn những cành mai sai hoa lớn nụ, cắt về cắm vào lộc bình rồi đặt lên bàn thờ chưng cúng. Còn cây mai nào đẹp đẽ được bứng gốc cho vào chậu đặt cạnh bàn vọng thiên hoặc đem vào phòng khách chưng tết. Sau tết, họ lại đem những cây mai này về nơi cũ trồng lại…
Thế nhưng, bên cạnh đa số người nghèo lại có thiểu số những người dư ăn thừa để, những vị hưu quan, và cả những lão nông không còn sức khỏe để đảm đương công việc đồng áng nặng nhọc, thì họ lại có nhiều thì giờ rảnh rỗi tìm đến thú điền viên là chơi kiểng cổ, để di dưỡng tinh thần.
Chơi kiểng cổ là thú vui tao nhã, lành mạnh hợp với sở thích người già. Nếu trước sân nhà có bày ra năm ba cây kiểng cổ, lại do tay mình uốn sửa nên dáng nên hình thì còn gì thích thú hơn.
Do cây mai có thân gỗ, cành nhánh mềm mại dễ uốn, lại sống lâu năm không thua gì tùng, bách, kim quýt, sơn liễu, cần thăng… nên dưới tài nghệ uốn sửa điêu luyện của người xưa dễ trở thành cây kiểng cổ giá trị.
Ngày xưa, đúng ra là từ sáu bảy thập niên trở về trước, ông cha ta chưa hề biết đến nghệ thuật cắt tỉa, tháp ghép mà chỉ biết việc uốn sửa cây kiểng theo các thế đã định với mục đích là ngầm ký thác tâm tư nguyện vọng sâu xa của mình vào đó.
Việc sửa cành uốn thế cho cây mai tốn rất nhiều công phu khó nhọc, không thể làm nóng vội trong một sáng một chiều mà thành, mà đòi hỏi người trồng phải có đức kiên nhẫn, nay uốn cành này, mai lại sửa cành khác… có khi cây mai đã già mà tác phẩm vẫn chưa hoàn thành!
Thế cây ra sao thì khuôn mẫu đã có sẵn, nhưng giá trị của việc uốn sửa cao thấp, đẹp xấu ra sao là tùy thuộc vào khả năng sáng tạo của mỗi người.

Các thế căn bản của cây kiểng
Được biết, có năm thế căn bản của cây kiểng xưa mà nghệ nhân cây kiểng thường theo đó mà uốn sửa:
– Thế trực: Cây mọc thẳng đứng tượng trưng hình ảnh một người anh hùng, đầu đội trời chân đạp đất, ý chí bất khuất, tự tin, tự lập, không chịu khom lưng luồn cúi nhờ vả một ai.
– Thế cận trực: Cây kiểng có thân thẳng, dáng hơi nghiêng về một phía, nhưng phần ngọn của nó vẫn hướng thẳng lên trời. Hình ảnh này tượng trưng cho người có ý chí kiên cường, dù gặp nghịch cảnh vẫn không chịu khuất phục.
– Thế hoành: Cây mai kiểng có thân thẳng, dáng bị nghiêng hơn thế cận trực một chút, nhưng phần ngọn của nó thì uốn ngả về phía gốc (hồi đầu). Hình ảnh này tượng trưng người có nhiều nghị lực và dũng cảm, dù cuộc sống bị nhiều phong ba bão táp vùi dập, nhưng vẫn cố gắng vươn lên mà sống.
– Thế ngọa: Ngọa có nghĩa là nằm. Thế cây mai kiểng uốn nằm ngang trên mặt chậu như bị gió to bão lớn xô ngã, nhưng phần đầu ngọn vẫn uốn theo thế hồi đầu (quay về phía gốc). Đây là hình ảnh của người anh hùng mạt vận. Người có thực tài mà tiếc là không gặp vận may, cất đầu lên không nổi nhưng vẫn không chịu đầu hàng số phận, vẫn có ý chí quật khởi.
– Thế huyền nhai: Đây là thế thác đổ. Thân cây mai được uốn cong và ngã xuống theo chiều ngọn thác từ trên cao đổ xuống vực sâu. Phần ngọn cây uốn ngược lên cao. Hình ảnh này nói lên số phận của một người có tài, có chí nhưng cuộc sống lại toàn gặp những chuyện không may, nhưng vẫn cố gắng phấn đấu…
Dựa vào năm thế căn bản trình bày trên, các nghệ nhân hoa kiểng xưa với lòng đam mê cao độ đã có sáng ý tạo ra nhiều thế phụ cũng gây được ấn tượng mạnh cho người thưởng lãm, như:
– Thế Trực quân tử: Dáng cây giống thế Trực: Thân mọc thẳng, các cành uốn vị trí nằm ngang. Cành dưới dài hơn cành trên để tạo tán hình chóp. Cây kiểng mang ý nghĩa người có phẩm hạnh tốt, có ý chí bất khuất, biết sống vì mọi người.
– Thế Nhất trụ kình thiên: Dáng cây giống thế Trực: Cây tạo gốc lớn, thân to, cành to, ngọn thẳng đứng lên trời, bộ rễ mọc khí sinh lan tỏa trên mặt chậu tạo thế vững cho cây. Cây kiểng mang ý nghĩa người có chí khí ngang tàng, chỉ muốn tung hoành dọc ngang trời bể để mưu cầu việc lớn, bất chấp mọi hiểm nguy.
– Thế Bạt phong hồi đầu: Dáng cây giống thế Cận trực: Thân mọc nghiêng về một phía như bị cuồng phong xô nghiêng, ngọn cây trở đầu lại phía gốc (hồi đầu) như cố gắng sức mình chống chọi lại, cố gượng dậy chứ không dễ dàng chịu ngã đổ. Các cành phía gốc cũng trở đầu như ngọn cây tỏ ý không chịu khuất phục. Cây tượng trưng cho người có đức tính tự lập, tự cường, không dễ chịu khuất phục trước mọi nghịch cảnh.
